NGƯỜI KHỞI KIỆN CÓ BẮT BUỘC XÁC NHẬN ĐỊA CHỈ CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN HAY KHÔNG?

  • 14/08/2024

Việc xác định địa chỉ của bị đơn là vấn đề quan trọng để khởi kiện và bảo vệ quyền lợi chính đáng. Tuy nhiên, việc này có thể gặp khó khăn khi người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ. Một số Tòa án yêu cầu xác nhận địa chỉ, nhưng quy định này không đồng nhất, gây khó khăn trong thực hiện pháp luật và xử lý đơn khởi kiện.

NGƯỜI KHỞI KIỆN CÓ BẮT BUỘC XÁC NHẬN ĐỊA CHỈ CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN HAY KHÔNG?

Việc xác định địa chỉ của bị đơn là vấn đề rất quan trọng, là một trong những điều kiện để có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng khi bị xâm hại. Tuy nhiên, việc xác định lại rất khó khăn, người khởi kiện không thể thực hiện quyền khởi kiện của mình khi người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đi khỏi địa phương hoặc cố tình che giấu địa chỉ nơi cư trú dưới hình thức liên tục thay đổi địa chỉ cư trú nhằm trốn tránh nghĩa vụ dẫn đến vụ án không thể thụ lý và giải quyết được.

Tuy nhiên thực tế hiện nay một số Tòa án địa phương khi nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện thì có nơi yêu cầu người khởi kiện phải có xác nhận nơi cư trú người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của cơ quan tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận có nơi thì không bắt buộc thủ tục này. Dẫn đến việc không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật tại Tòa án địa phương, cụ thể là việc áp dụng không thống nhất trong việc nhận và xử lý đơn khởi kiện tại Tòa án do có 02 quan điểm khác nhau:

NGƯỜI KHỞI KIỆN CÓ BẮT BUỘC XÁC NHẬN ĐỊA CHỈ CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN HAY KHÔNG?

1. Quan điểm cho rằng khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án thì bắt buộc người khởi kiện phải nộp văn bản xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do cơ quan, tổ chức cấp hoặc xác nhận:

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP) thì: “Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”. Như vậy theo quan điểm này thì người khởi kiện được coi là cung cấp địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật khi đáp ứng một trong hai điều kiện là phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận (Ví dụ: Xác nhận thông tin địa chỉ nơi cư trú do Công an cấp xã cấp hoặc xác nhận) hoặc là có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Ví dụ: Người khởi kiện nộp Biên nhận vay tiền nợ có ghi thông tin địa chỉ nơi cư trú của bị đơn). Quan điểm này cho rằng nếu có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì người khởi kiện cũng cần phải xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận. Bởi lẽ có một số trường hợp trong biên nhận hoặc hợp đồng thì địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ghi nhầm lẫn hoặc một lý do nào đó họ cố ý ghi sai thông tin về địa chỉ nơi cư trú. Do đó trong trường hợp này người khởi kiện cũng bắt buộc phải nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để nhận và xử lý đơn khởi kiện được đúng thẩm quyền.

Thứ hai, việc xác nhận thông tin địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ban đầu chính xác thì sẽ tiết kiệm được chi phí tiền bạc và thời gian của Tòa án khi không phải đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không cung cấp được địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sau khi Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án, đặc biệt là tình trạng thiếu nhân lực của ngành Tòa án hiện nay.

Cuối cùng là theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2021/NĐ-CP, ngày 29/6/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Cư trú (Nghị định 62/2021/NĐ-CP) thì để đảm bảo bí mật thông tin cá nhân nên người khởi kiện không được xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trừ trường hợp phục vụ hoạt động xét xử. Tức là, trong trường hợp này Tòa án phải có bảng đề nghị gửi cơ quan có thẩm quyền xác nhận nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng người khởi kiện không biết được thông tin của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên không ghi được trong đơn khởi kiện và Tòa án khi đó cũng không thể có văn bản đề nghị xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, việc người khởi kiện bắt buộc xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cần thiết ban đầu để Tòa án nhận đơn khởi kiện.

2. Quan điểm cho rằng khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án thì không bắt buộc người khởi kiện phải nộp văn bản xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do cơ quan, tổ chức cấp hoặc xác nhận.

Thứ nhất, mặc dù theo quan điểm tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP  ngày 05/5/2017 ghi nhận khi người khởi kiện không có căn cứ chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải có xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp hoặc xác nhận. Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 quy định các trường hợp được cung cấp, trao đổi, thông tin, tài liệu trong cơ sở dữ liệu về cư trú như sau:

“a) Cơ quan tiến hành tố tụng được cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu về cư trú phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử;

b) Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu cư trú để phục vụ công tác theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao;

c) Công dân được cung cấp, trao đổi thông tin của mình trong Cơ sở dữ liệu về cư trú;

d) Cơ quan, tổ chức và công dân không thuộc quy định tại các điểm a, b, c khoản này có nhu cầu cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân khác phải được công dân đó đồng ý bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực và được Trưởng Công an cấp xã hoặc Trưởng Công an cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã tại nơi công dân đó đăng ký thường trú hoặc tạm trú đồng ý cho phép cung cấp, trao đổi thông tin”

Do đó trong trường hợp này người khởi kiện sẽ không được xác nhận thông tin nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi không có sự đồng ý của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thông tin nơi cư trú của họ. Vì vậy người khởi kiện sẽ không thể nộp được xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án được.

Thứ hai, Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Về cơ bản việc sắp xếp như quy định tại Điều 4 trên thể hiện giá trị pháp lý từ cao xuống thấp dựa trên địa vị pháp lý của cơ quan ban hành và tính chất của văn bản. Do đó, Nghị định 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều Luật Cư trú sẽ có giá trị pháp lý cao hơn Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật về xác nhận thông tin địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện phải áp dụng giá trị văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định của Chính phủ.

Từ 02 quan điểm trên Thiết nghĩ, cần có hướng dẫn cụ thể để xác định nơi cư trú của bị đơn, theo tác giả, người khởi kiện phải cung cấp được trên đơn khởi kiện gồm: Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức. Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện. Từ đó, Tòa án căn cứ địa chỉ cung cấp gửi đề nghị đến cơ quan có thẩm quyền xác nhận nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp, người khởi kiện không biết được thông tin của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không có căn cứ chứng minh người bị kiện không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không cung cấp được địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Luật sư Trương Mỹ Phụng

Các bài viết khác

Liên hệ tư vấn

0901 878 296